Hoành phi câu đối bằng đồ đồng trong kiến trúc cổ ở Huế
Ở Việt Nam có hai loại hoành phi rất phổ biến là: hoành phi thờ tự và hoành phi câu đối đa số các bức này đều được khảm đồng lên chữ. Địa điểm phủ hợp nhất để treo hoành phi trang trí chính là ở phòng khách hay ở chính đường (gian giữa của tòa nhà), vừa có tác dụng trang trí, lại vừa thể hiện một tín niệm nào đó của gia chủ, hay có khi là một lời khuyên răn của cha ông đối với con cháu trong gia đình. Loiaj còn lại là hoành phi thờ tự lại rất phổ biến trong các đình chùa, miếu mạo, nhà thờ họ tộc… Đó có thể là những biển ngạch định danh những nơi này, hoặc là những danh ngôn, mỹ tự được thờ phụng, tôn trí trang nghiêm.
Thường thì hoành phi có nội dung trang trọng, nghiêm túc. Hình thức của hoành phi cũng vô cùng phong phú: có khi chỉ là một mảnh gỗ hình chữ nhật có khung bao quanh, văn tự thể hiện chân phương, sơn son thếp vàng; có khi hoành phi được thể hiện kiểu cuốn thư, văn tự khắc nổi hay chạm sâu theo các kiểu chữ triện, chữ lệ rất cầu kỳ, được sơn thếp rực rỡ, khung ngoài có khắc chạm các đồ án trang trí rất tinh xảo. Và làng nghề cho ra đời những bức hoành phi này không đâu hết chính là làng nghề đúc đồng Đại Bái truyền thống
Câu đối thì bắt buộc phải đi song song, có đôi và treo hai bên cột đối diện nha, câu đối còn gọi là doanh thiếp, doanh liên hay đối liên. Doanh, chữ Hán nghĩa là ‘cây cột’, thiếp là ‘tờ giấy’, liên là ‘liên kết’, đối là ‘đi đôi, song song, một cặp đối xứng’. Thời xa xưa, câu đối còn được gọi là liên hay liễn. Liễn là hai tấm giấy, hoặc hai vóc lụa dài để viết câu đối, có nẹp trục để cuộn. Câu đối là một loại hình văn hóa rất được người Việt mọi tần lớp ưa thích, từ tầng lớp thường dân cho đến các bậc thức giả, quyền quý. Câu đối xuất hiện trong rất nhiều sinh hoạt đời thường của dân ta: đón Tết, mừng xuân, tân gia, hôn sự, sinh con, đỗ đạt, thăng tiến, vinh danh, tuyên dương, vịnh cảnh, bài trí ở các nơi thờ tự, tôn miếu, chùa chiền… Thậm chí có cả những câu đối dùng để chê người, chửi đời…
Câu đối ngày trước viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Câu đối đời nay viết bằng chữ quốc ngữ, theo kiểu “thư pháp Việt”. Câu đối được viết, khắc, chạm trổ… trên rất nhiều chất liệu khác nhau: giấy, lụa, gỗ, đá, kim loại… muôn hình vạn trạng.
Về nội dung, câu đối chứa đựng nhiều nội dung khác nhau. Có loại câu đối trích dẫn điển tích, kinh điển; có loại ngôn ngữ mộc mạc chân chất. Có câu đối dùng để chúc tụng, biếu tặng nên hình thức cầu kỳ, chạm khắc tinh xảo, sơn thếp sang trọng. Có câu đối viết trên giấy, trên vải dùng để trang trí trong nhà dăm ba bữa Tết. Có câu đối lại chỉ được đọc cho người khác nghe, xong rồi thôi, không lưu lại bút tích.
Huế là nơi còn lưu giữ nhiều hoành phi câu đối bậc nhất Việt Nam hiện nay, nhất là những hoành phi, câu đối được chạm khắc trên đá, trên gỗ một cách bền vững, giàu thẩm mỹ và nghệ thuật. Những đồ đồng nổi tiếng cũng được lưu giữ tại Huế
Ngày trước, Huế là kinh đô của cả nước, nên triều đình phong kiến cho xây dựng nhiều cung điện, lăng tẩm… Ở những nơi ấy, hoành phi và câu đối trở thành những vật bài trí không thể thiêu vắng. Huế còn có nhiều chùa chiền, đền miếu, nơi mà hoành phi, câu đối không chỉ là vật bài trí mà còn là thứ để thờ tự, để vinh danh và truyền bảo luân lý, đạo thường. Ngoài ra, vì là kinh đô, nên Huế tồn tại một tầng lớp quý tộc quan liêu . Những người này sinh sống trong hàng trăm dinh thự, phủ đệ tọa lạc trong những khu vườn mênh mông ở Vỹ Dạ, Kim Long, An Cựu, Ngự Viên… Nơi ở của tầng lớp này thường là những ngôi nhà rường ba gian hai chái với rất nhiều hàng cột và hệ thống liên ba, đố bản. Đó là những nơi vô cùng thích hợp để bài trí hoành phi và câu đối. Không một người Huế nào có thể hình dung trong một ngôi nhà rường kiểu Huế lại vắng bóng hoành phi và câu đối.
Sau cùng, Huế là nơi hội tụ anh tài, các bậc trí thức của cả nước. Họ là những vị hoàng thân quốc thích thông thạo kinh sử; là quan lại lưu kinh phụng mệnh triều đình; là những Nho sinh đang “sôi kinh nấu sử” chờ ngày ứng thí… Tầng lớp này chính là “tác giả” nội dung của vô số hoành phi, câu đối hiện đang bài trí trong những ngôi nhà kiểu xưa ở Huế. Đó có thể là những phương ngôn, triết lý của Nho giáo hay những lời ca ngợi, biểu dương chạm khắc trên hoành phi. Đó lại có thể là những lời xưng tụng thượng cấp hay đồng liêu; là lời chúc mừng bằng hữu đỗ đạt hay thăng tiến… hiện diện trên những cặp câu đối bằng gỗ được chạm khảm cầu kỳ. Những món đồ đồng thờ cúng đẹp được trưng lên ở các nơi thờ tự.
Chế độ phong kiến kết thúc, nhưng gia phong dưới những mái nhà rường xứ Huế vẫn tồn tại. Hậu duệ của các bậc quý tộc xưa vẫn tìm cách duy trì truyền thống, gia phong quá vãng bằng việc nâng niu những di sản mà tiền nhân để lại, trong đó có hoành phi và câu đối bằng đồ đồng phong thủy.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh khốn khó thời hậu chiến, nhiều người buộc lòng bán đi nhiều kỷ vật của gia tộc, kể cả hoành phi và câu đối, để mưu sinh. Tiếp theo, cơn lốc thời kinh tế thị trường và làn sóng hưởng thụ cuộc sống tiện nghi đã “cuốn phăng” nhiều ngôi nhà rường truyền thống, thay thế bằng những villa hiện đại và những ngôi nhà hình ống. Hoành phi và câu đối cũng theo đó mà mất mát khá nhiều. Giống như đồ đồng đại bái vậy.
Những năm trở lại đây, đời sống kinh tế có phần tốt lên, nhiều người tìm về nếp sống gia phong xưa nên họ tìm mua hoành phi câu đối. Để thể hiện quyền quý gia phong bậc nhất hoành phi câu đối được làm bằng chất liệu gỗ sơn son thếp vàng, có thể chất liệu đồng vàng hay đỏ, có khi cũng sơn son thếp vàng. Hoành phi và câu đối cũng theo đó mà trở lại với Huế, bởi lẽ, đó là những vật dụng không thể thay thế trong những ngôi nhà rường, nơi để các “đại gia” không chỉ khoe của, khoe gout thẩm mỹ của mình, mà còn là nơi khoe với bàn dân thiên hạ rằng: mình là kẻ “có chữ”, là người “hoài cổ” và biết trân trọng truyền thống với những bức hoành phi câu đối bằng đồng. Âu đó cũng là một điều đáng mừng vậy.